Kinh tế thị trường thúc đẩy tăng trưởng, giảm đói nghèo. Nhưng nếu cải cách đặt sự tồn vong chế độ lên trên lợi ích người dân có thể làm tổn hại quá trình chuyển đổi dân chủ.
Trước “Đổi mới” năm 1986, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, nông nghiệp lạc hậu của Việt Nam đứng trước nguy cơ sụp đổ, người dân nghèo nàn, kiệt quệ và không có tự do kinh tế.
Ngày nay, sau hơn 30 năm, Việt Nam đã vươn lên là quốc gia có thu nhập trên đầu người ở mức trung bình thấp. Từ năm 2002 đến năm 2018, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng hơn 2,7 lần. Theo ước tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), quy mô nền kinh tế Việt Nam năm 2020 theo GDP danh nghĩa đạt 340,6 tỷ đô la Mỹ hay 3.498 USD/người, và nếu tính theo sức mua tương đương đạt 1.047 tỷ đô la Mỹ và 10.755 USD/người.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh của Việt Nam trong suốt giai đoạn qua, mặc dù bất bình đẳng cũng gia tăng, đã mang lại lợi ích cho phần lớn dân số, trước hết tác động đến việc xoá đói giảm nghèo. Số người nghèo, tính theo chuẩn nghèo quốc tế, đã giảm liên tục từ khoảng 40 triệu vào năm 1990, xuống còn 14 triệu vào năm 2004 và theo chuẩn nghèo mới (đa chiều) tính đến cuối năm 2019, số nguời nghèo còn khoảng 10 triệu… Như vậy, mặc dù chuẩn nghèo thay đổi theo hướng nâng cao, thì trong một phần ba thế kỷ có hơn 40 triệu người Việt Nam thoát đói nghèo.
Thực tế quá trình chuyển đổi kinh tế cho thấy về sức mạnh của kinh tế tư bản, vốn, năng lực và động lực thị trường cho tăng trưởng. Các nguyên lý của kinh tế thị trường tự do đã từng bước được áp dụng, sở hữu tư nhân được khuyến khích. Hầu như toàn bộ nền kinh tế đang chuyển động theo những nguyên tắc kinh tế như nhau – hoạt động sản xuất kinh doanh hướng đến lợi nhuận, dùng lao động làm công ăn lương và tự do về phương diện pháp lý, các doanh nghiệp phối hợp phi tập trung theo quy luật cung cầu. Đồng thời với việc sử dụng các công cụ, thước đo, chỉ tiêu của kinh tế thị trường, sự can thiệp của nhà nước toàn trị đối với nền kinh tế cũng giảm dần.
Những thay đổi như trên chứng tỏ sức mạnh của kinh tế thị trường đối với sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, cách giải thích các thành tựu kinh tế thường gắn với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (ĐCS) về công lao trong giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội có thể khắc phục các mặt trái của thị trường như thể biện minh cho tính chính danh của chế độ khi các lãnh đạo không được bầu bởi tất cả người dân.
Các chế độ chính trị đều phải thay đổi để thích nghi với kinh tế thị trường thúc đẩy tăng trưởng trong bối cảnh toàn cầu hoá, trong đó chế độ Đảng Cộng sản toàn trị ở Việt Nam không là ngoại lệ. Những đặc điểm chủ yếu của mô hình chính trị này là tập trung quyền lực quá mức, tính chính danh của đảng yếu, dựa quá nhiều vào áp bức, và để cho quyền lực cá nhân chi phối các chuẩn mực thể chế. Giữ nguyên chế độ đảng trị với cấu trúc tháp tập trung quyền lực: Tổng bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành trung ương…. quá trình thích nghi của chế độ với sự chuyển đổi kinh tế sang thị trường diễn ra theo hướng thể chế hoá, nghĩa là tạo dựng các quy tắc, chính thức hoặc không chính thức, để ràng buộc các hành vi của con người, đặc biệt đối với quan chức bộ máy cai trị.
Đồng thời với cải thiện môi trường khuyến khích đầu tư, kinh doanh và khởi nghiệp thì quá trình thể chế hoá, tăng cường pháp trị được thực hiện trên các phương diện sau: Một là, xác lập các tiêu chuẩn để chuyển giao quyền lực giữa các thế hệ lãnh đạo. Không quá hai nhiệm kỳ năm năm làm lãnh đạo trong bộ máy công quyền, tổ chức công lập và giới hạn tuổi được quy định trong các văn bản pháp lý, thậm chí trong Điều lệ Đảng CS; Hai là, tuyển chọn, sử dụng cán bộ dựa trên năng lực hơn là quan hệ bè phái, ưu tiên quá trình ‘thử thách’ và kinh nghiệm công tác; Ba là, phân công, phân quyền theo hướng chuyên môn hoá chức năng trong bộ máy nhà nước. Các nhánh quyền lực như chính phủ, quốc hội, tư pháp có nhiều không gian hoạt động hơn; Bốn là, nới lỏng sự tham gia chính trị qua các tổ chức như xã hội dân sự, phi chính phủ, thiện nguyện… nhằm tăng sự hấp dẫn với người dân và củng cố tính chính danh của đảng.
Tuy nhiên, những thay đổi như trên về thể chế chính trị đã không đáp ứng được sự phát triển của kinh tế thị trường. Sự quản lý của Đảng, Chính phủ đối với toàn bộ tài nguyên, đất đai và sự can thiệp quá mức vào nền kinh tế, mà quyền lực công thiếu cơ chế kiểm soát hữu hiệu, là nguyên nhân trực tiếp của chủ nghĩa thân hữu, sự liên kết giữa quan chức và doanh nhân, sinh sôi nạn tham nhũng nghiệm trọng, nạn hối lộ, trục lợi bất chính tràn lan, thất thoát tài sản công, suy thoái đạo đức và lối sống, văn hóa, phá hỏng luật chơi của thị trường. Tình hình nghiêm trọng đến mức đe doạ sự tồn vong của chế độ.
Đảng đang tìm cách cứu vãn chế độ, thoát ra khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên, việc “củng cố” nội bộ đảng đồng thời với chống tham nhũng bằng tập trung quyền lực cao hơn, đang đi ngược với quá trình thể chế hoá nêu trên. “Các trường hợp đặc biệt” đã phá vỡ các chuẩn tắc chuyển giao quyền lực; đề bạt cán bộ dựa trên lòng trung thành với lãnh tụ, lý tưởng thay thế cho năng lực kỹ trị; quyền lực của Chính phủ bị kiểm soát chặt chẽ hơn; dân chủ trong Đảng bị hạn chế, các tổ chức xã hội dân sự như hội, đoàn bị hạn chế. Ngoài ra, kỷ luật Đảng đang được siết chặt hơn. Hội nghị Trung ương 3 khoá 13 vừa sửa đổi hoặc ban hành các quy định thực hiện Điều lệ Đảng, quy chế làm việc và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng, tăng cường quyền lực cho Uỷ ban kiểm tra Đảng…
Những động thái trên là nỗ lực đưa chế độ theo đúng đặc điểm toàn trị mà các nhà nghiên cứu có ảnh hưởng nhất về chủ nghĩa toàn trị đã chỉ ra. Đó là đảng, nhà nước cố gắng động viên toàn thể dân chúng theo ý thức hệ chủ nghĩa xã hội và không khoan nhượng đối với những hoạt động không hướng về mục tiêu của đảng, lãnh đạo toàn diện các cơ quan quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp, công an, quân đội…), tăng cường lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị và quần chúng, đồng thời với kiểm soát truyền thông, các cơ sở học thuật, các cơ sở tôn giáo….
Thực tế chỉ ra rằng, trong cùng bối cảnh toàn cầu hoá, sau những thành công kinh tế nhờ thị trường, chế độ chính trị độc đoán trong các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore… đã từng chuyển đổi sang chế độ dân chủ. Tuy nhiên, chế độ đảng CS toàn trị không lựa chọn cách thay đổi này. Quá trình cải cách thể chế chính trị chưa bao giờ suôn sẻ và nhất quán, đặc biệt trong những năm gần đây, còn chứa đựng những mâu thuẫn, chủ trương xây dựng “Đảng mạnh, nhà nước mạnh” hiện nay theo kiểu “thể chế hoá ngược” có thể cản trở chuyển đổi kinh tế sang thị trường.